Có hơn 200 bệnh lý xương khớp khác nhau, trong đó có một số bệnh thường gặp và là nguyên nhân phổ biến gây ra tình trạng đau nhức xương khớp. Vậy đó là những căn bệnh nào?
Mục lục
Tổng quan về các bệnh lý xương khớp
Bệnh khớp được định nghĩa là bất kì bệnh hoặc chấn thương nào ảnh hưởng đến khớp hoặc các cấu trúc thuộc khớp của con người.
Khớp là một khu vực chuyên biệt của hệ thống xương. Nó nằm ở giữa 2 đầu xương, cho phép các cử động như: uốn, duỗi, xoay,… Các đầu xương trong khoang khớp được bao phủ bởi sụn trơn (sụn khớp). Khớp được giữ với nhau bằng một bao khớp chứa collagen (bao hoạt dịch) và được tăng cường bởi các dây chằng. Bên trong bao hoạt dịch là một lớp tế bào hoạt dịch dẹt, tiết ra dịch khớp. Chất lỏng hoạt dịch trong khoang khớp đóng vai trò như một chất bôi trơn.
Người ta ước tính được rằng có khoảng 250 đến 350 khớp trong cơ thể chúng ta, các khớp này được chia ra thành 3 loại chính:
- Synarthroses (khớp bất động). Đây là những khớp cố định hoặc bao xơ. Chúng được định nghĩa là hai hoặc nhiều xương tiếp xúc gần nhau và không có chuyển động. Chẳng hạn các khớp bất động ở xương sọ, mặt,…
- Amphiarthroses (khớp bán chuyển động). Còn được gọi là khớp sụn, những khớp này được tạo thành từ hai hoặc nhiều xương được giữ chặt chẽ với nhau, đến mức chỉ có thể cử động hạn chế. Một số khớp bán chuyển động là: khớp đốt sống, khớp háng…
- Diarthroses (khớp động). Còn được gọi là khớp hoạt dịch, các khớp này có chất lỏng hoạt dịch giúp tất cả các bộ phận của khớp chuyển động nhịp nhàng với nhau. Đây là những khớp phổ biến nhất trong cơ thể chúng ta. Ví dụ về khớp động: khớp gối, khớp tay, khớp vai,…
Vì các khớp được tạo thành từ hai xương kết hợp với nhau nên có rất nhiều sự chồng chéo giữa các bệnh về xương hoặc khớp. Xương có thể bị tổn thương hoặc phản ứng với các bệnh khớp để làm trầm trọng thêm vấn đề mà bệnh nhân gặp phải và ngược lại.
Có hơn 200 loại bệnh xương khớp khác nhau, trong đó có một số bệnh rất phổ biến và là các nguyên nhân thường gặp gây ra triệu chứng đau nhức xương khớp.

Các bệnh khớp thường gặp
Thoái hóa khớp
Bệnh này là gì?
Thoái hóa khớp hay viêm xương khớp (osteoarthritis – OA) là một bệnh xương khớp phổ biến nhất. Nó thường xảy ra khi chúng ta già đi, tuy nhiên những người trẻ cũng có thể mắc căn bệnh này. Trước 45 tuổi, bệnh thoái hóa khớp xảy ra thường xuyên hơn ở nam giới. Sau 55 tuổi, nó xảy ra thường xuyên hơn ở phụ nữ.
Viêm xương khớp là một dạng viêm khớp, xảy ra khi một hoặc nhiều sụn ở các khớp bị mòn đi, khiến hai đầu xương cọ xát vào nhau. Thoái hóa khớp có thể xảy ra ở bàn tay, chân, cột sống và các khớp chịu trọng lượng lớn.
Thoái hóa khớp được chia thành 2 loại là nguyên phát và thứ phát. Nếu thoái hóa khớp xảy ra không rõ nguyên nhân, nó được gọi là thoái hóa khớp nguyên phát. Nếu nguyên nhân xác định được, nó là thoái hóa khớp thứ phát.
Nguyên nhân gây bệnh.
Thoái hóa khớp nguyên phát thường là một phần kết quả của sự lão hóa tự nhiên của khớp. Khi cơ thể chúng ta già đi, hàm lượng nước trong sụn giảm đi, hoạt dịch ít dần lại, điều này làm sụn bắt đầu bong tróc và hình thành các rãnh nhỏ. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân có thể bị mất toàn bộ lớp sụn đệm giữa các khớp. Mất lớp đệm sụn sẽ gây ma sát giữa các đầu xương, dẫn đến đau nhức và hạn chế vận động khớp.
Thoái hóa khớp thứ phát là một dạng thoái hóa khớp do một bệnh hoặc tình trạng khác gây ra. Các tình trạng có thể dẫn đến thoái hóa khớp thứ phát bao gồm:
- Béo phì
- Rối loạn hormone
- Chấn thương lặp đi lặp lại hoặc có phẫu thuật cấu trúc khớp
- Bất thường bẩm sinh ở khớp
- Bệnh gút
- Bệnh tiểu đường
- Bệnh huyết sắc tố
Dấu hiệu nhận biết bệnh.
- Đau ở các khớp bị thoái hóa, cơn đau thường nặng hơn vào cuối ngày do các hoạt động trong ngày hoặc xuất hiện sau một thời gian dài không hoạt động (ví dụ: ngồi lâu trong rạp chiếu phim, sau khi ngủ,…). Khi bị thoái hóa khớp nặng lớp đệm sụn mất hoàn toàn thì có thể bị đau ngay cả khi nghỉ ngơi, làm hạn chế vận động. Nếu bị thoái hóa khớp ở cột sống có thể gây ra những cơn đau dữ dội, tê và ngứa ran;
- Sưng tấy;
- Ấm khớp;
- Khớp bị thoái hóa có tiếng kêu cót két;
- Suy nhược cơ thể;
- Biến dạng khớp dẫn đến sai khớp hoặc chi;
- Đi khập khiễng;
Thoái hóa khớp là một bệnh biệt lập, không giống như nhiều dạng viêm khớp khác là bệnh toàn thân (tình trạng ảnh hưởng đến nhiều vùng của cơ thể ngoài khớp). Bệnh viêm xương khớp không ảnh hưởng đến các cơ quan khác ngoài cơ thể.
Tìm hiểu thêm: Triệu chứng thoái hóa khớp

Bệnh gút
Bệnh này là gì?
Bệnh gút (gout) cũng là một bệnh viêm khớp phổ biến và phức tạp có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Ở nam giới, bệnh thường phổ biến ở tuổi trung niên; ở phụ nữ, nó thường khởi phát ở giai đoạn muộn của cuộc đời.
Đây là một bệnh rối loạn chuyển hóa, đặc trưng bởi các đợt cấp tính tái phát do tình trạng viêm nặng ở một hoặc nhiều khớp tứ chi.
Cơn gút thường xảy ra một cách đột ngột vào lúc nửa đêm và khởi phát ở khớp gốc ngón chân cái. Nó khiến bạn thức giấc lúc nửa đêm với cảm giác ngón chân như bị bỏng, sưng đau dữ dộ, nóng, mềm. Đôi khi cơn đau có thể nặng đế mức bạn không thể chịu được trọng lượng của tấm giấy đặt trên đó.
Nguyên nhân gây bệnh.
Bệnh gút xảy ra là do quá nhiều axit uric trong máu và sự tích tụ các tinh thể urat trong các mô của cơ thể. Tinh thể axit uric lắng đọng trong khớp gây viêm khớp dẫn đến đau, đỏ, nóng và sưng tấy. Axit uric thường được hình thành trong quá trình cơ thể phá vỡ một số protein gọi là purin.
Nguyên nhân làm tăng nồng độ axit uric trong máu là:
- Di truyền
- Béo phì
- Do sử dụng một số loại thuốc như thuốc lợi tiểu
- Suy giảm chức năng thận mãn tính
- Huyết áp cao
- Một số loại thực phẩm, chẳng hạn như bít tết, thịt nội tạng và hải sản
- Đồ uống có cồn, đặc biệt là bia và đồ uống có đường trái cây (fructose)
Dấu hiệu nhận biết. Bệnh gút thường khởi phát đột ngột vào ban đêm với các triệu chứng:
- Sưng và đau đột ngột ở một khớp (thường là khớp các chi dưới);
- Khớp bị gút trở nên nhạy cảm khi chạm vào;
- Đỏ khớp
- Nóng khớp
- Sự hiện diện của các hạt tophi (Tophi là các hạt cứng ở dưới da, xuất hiện do sự lắng đọng axit uric. Tophi có thể được tìm thấy ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể, phổ biến là ở khuỷu tay, sụn vành tai trên, ngón tay, bàn tay, bàn chân, khuỷu tay,…).
Nếu không được điều trị, bệnh gút có thể tiến triển trở nên nghiêm trọng hơn, gây ra nhiều tình trạng như: bệnh gút tái phát, bệnh gút nâng cao, sỏi thận.
Viêm khớp dạng thấp
Bệnh này là gì?
Viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis – RA) ước tính ảnh hưởng đến 0,25 tới 1% dân số và phổ biến ở phụ nữ nhiều gấp đôi nam giới. Ở phụ nữ, nguy cơ mắc bệnh trong suốt cuộc đời là 3,6% và ở nam giới là 1,7%. RA có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn ở tuổi trung niên.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn kéo dài, ảnh hưởng tới khớp và nhiều cơ quan khác trên cơ thể, như da, mắt, phổi, tim và mạch máu. Đây là một bệnh rối loạn tự miễn dịch, nghĩa là bệnh xảy ra khi hệ thống miễn dịch của bạn tấn công vào chính các mô lành của cơ thể bạn. Kết quả là tình trạng này là viêm làm dày bao hoạt dịch, sụn và xương trong khớp bị phá hủy.
Nguyên nhân gây bệnh.
Hiện nay, người ta vẫn chưa biết chính xác vì sao hệ thống miễn dịch lại tấn công chính cơ thể mình. Một số giả thuyết khác nhau có giải thích lý do, chẳng hạn như nhiễm trùng là nguyên nhân kích hoạt, nhưng không có giả thuyết nào trong số này được chứng minh.
Có một số yếu tố được cho rằng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp, gồm:
- Gen di truyền
- Do ảnh hưởng của hormone estrogen (mặc dù mối liên hệ này chưa được chứng minh)
- Hút thuốc (có một số bằng chứng cho thấy những người hút thuốc có nguy cơ mắc RA)
Dấu hiệu nhận biết. Viêm khớp dạng thấp là một bệnh toàn thân, vì thế nó có thể gây ra các triệu chứng tại khớp và cả các triệu chứng toàn thân.
– Các triệu chứng tại khớp:
- Khớp mềm, ấm và sưng tấy;
- Cứng khớp thường tồi tệ hơn vào buổi sáng và sau khi không hoạt động;
- Mất chức năng khớp;
- Dị tật khớp;
– Triệu chứng toàn thân:
- Mệt mỏi
- Sốt
- Ăn mất ngon
- Giảm cân
- Viêm mạch (viêm mạch máu)
- Vết loét
- Thiếu máu
- Viêm củng mạc
- Viêm màng ngoài tim
- Viêm cơ tim
- Viêm dây thần kinh
RA là một bệnh mãn tính, biểu hiện bằng các triệu chứng viêm đau ở các khớp và các triệu chứng toàn thân. Các triệu chứng này thường xảy ra trong các đợt gọi là bùng phát hay đợt cấp. Những thời điểm khác gọi là giai đoạn thuyên giảm của bệnh, đây là khi mà các triệu chứng biến mất hoàn toàn.
Nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp, RA có thể dẫn đến dị tật vĩnh viễn, tàn tật và các biến chứng toàn thân nghiêm trọng.
Viêm bao hoạt dịch
Bệnh này là gì?
Viêm bao hoạt dịch (Bursitis) là một bệnh phổ biến ở người lớn, đặc biệt là sau 40 tuổi. Đây là tình trạng bao hoạt dịch ở khớp bị sưng tấy và kích ứng. Viêm bao hoạt dịch có thể xảy ra ở khuỷu tay, vai, hông, đùi, đầu gối, gót chân,…
Tình trạng này có thể là mãn tính (xảy ra thường xuyên) hoặc cấp tính (xuất hiện đột ngột).
Nguyên nhân gây bệnh.
Ba nguyên nhân phổ biến nhất của viêm bao hoạt dịch là: 1) thực hiện chuyển động lặp đi lặp lại (ví dụ, ném bóng nhiều lần), 2) chấn thương (quỳ nhiều hoặc bị đập đầu gối lên bàn), 3) nhiễm trùng và bị các tình trạng thấp khớp từ trước.
Đôi khi, người ta không thể tìm ra nguyên nhân gây viêm bao hoạt dịch.
Dấu hiệu nhận biết.
- Đau và nhức khi bạn ấn xung quanh khớp
- Căng cứng và đau nhức khi bạn di chuyển khớp bị viêm
- Sưng, nóng hoặc đỏ trên khớp
Đau là triệu chứng phổ biến nhất của viêm bao hoạt dịch. Nó có thể tích tụ từ từ hoặc đột ngột khởi phát nghiêm trọng, đặc biệt nếu có cặn canxi trong khu vực viêm.
Hãy lập tức cấp cứu nếu bạn có các triệu chứng sau:
- Sốt (trên 38°C)
- Sưng tấy, mẩn đỏ và nóng khớp
- Bị đau ở nhiều vùng
- Khó di chuyển khớp
Đây có thể là các dấu hiệu của nhiễm trùng hoặc một vấn đề khác cần được chăm sóc y tế ngay lập tức.
Loãng xương
Bệnh này là gì?
Loãng xương là một bệnh phổ biến ở những người trên 50 tuổi. Các nghiên cứu cho thấy rằng, 1/2 nữ giới và 1/4 nam giới từ 50 tuổi trở lên sẽ bị gãy xương do loãng xương.
Loãng xương là một tình trạng đặc trưng bởi sự giảm mật độ xương, giảm sức mạnh xương và dẫn đế xương dễ gãy. Theo nghĩa đen, loãng xương dẫn đến xương xốp bất thường, có thể nén được giống như một miếng bọt biển.
Nguyên nhân gây bệnh.
Giảm mật độ xương là một phần bình thường của quá trình lão hóa, nhưng một số người bị mất xương nhanh hơn nhiều so với bình thường. Điều này có thể dẫn đến loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương.
Dưới đây là các yếu tố sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương:
- Giới tính nữ
- Chủng tộc da trắng hoặc châu Á
- Khung thân mỏng và nhỏ
- Tiền sử gia đình bị loãng xương (ví dụ, có mẹ bị gãy xương hông do loãng xương làm tăng gấp đôi nguy cơ gãy xương hông của bạn)
- Tiền sử gãy xương khi trưởng thành
- Hút thuốc lá
- Lạm dụng rượu
- Không hoặc rất ít tập thể dục
- Chế độ ăn ít canxi
- Ăn uống nghèo dinh dưỡng
- Hấp thu kém chất dinh dưỡng do mắc các bệnh đường ruột
- Thiếu hụt estrogen ở nữ giới
- Testosterone thấp ở nam giới
- Hóa trị gây mãn kinh sớm
- Vô kinh (mất kinh )
- Có các bệnh viêm mãn tính, như viêm khớp dạng thấp hoặc bệnh viêm gan
- Bất động sau đột quỵ hoặc do bất kỳ tình trạng nào cản trở việc đi lại
- Cường giáp
- Cường cận giáp
- Thiếu vitamin D
- Một số loại thuốc khi sử dụng lâu dài cũng có thể gây loãng xương, như heparin (chất làm loãng máu), thuốc chống co giật, corticosteroid đường uống
- Bị các rối loạn di truyền của mô liên kết.
Dấu hiệu nhận biết.
Loãng xương có thể xảy ra mà không có bất kỳ triệu chứng nào trong nhiều thập kỉ và thường chỉ được phát hiện cho đến khi người bệnh bị gãy xương. Một số trường hợp gãy xương do loãng xương thậm chí còn có thể thoát khỏi được sự phát hiện bệnh trong nhiều năm, bởi chúng không gây ra triệu chứng.
Các triệu chứng liên quan đến gãy xương do loãng xương thường là đau đớn; vị trí đau phụ thuộc vào vị trí gãy xương.
Nếu không được điều trị, loãng xương có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống và thậm chí gây tàn tật.
Gãy xương do loãng xương gây ra đau đớn đáng kể, giảm chất lượng cuộc sống, mất ngày công và tàn tật. Bệnh nhân cao tuổi có thể bị viêm phổi và thuyên tắc phổido nằm lâu trên giường sau khi gãy xương hông do loãng xương. Loãng xương thậm chí có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong, khoảng 20% phụ nữ bị gãy xương hông sẽ chết trong năm tiếp theo do hậu quả gián tiếp của gãy xương.
Kết luận
Hệ thống xương của người trưởng thành có cấu trúc phức tạp bao gồm 206 xương được đặt tên được kết nối bằng sụn, gân, dây chằng cung ba loại khớp: khớp bất động, khớp bán chuyển động và khớp động.
Có hơn 200 bệnh lí xương khớp khác nhau có thể gây ra triệu chứng đau nhức xương và khớp. Nhìn chung, bệnh xương khớp là một bệnh tiến triển theo thời gian, nếu không kịp thời điều trị, bệnh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, bao gồm cả tàn tật.
Nguồn bài viết: